Khám Phá Ý Thức Tổng Thể: Sự Kết Nối Vô Biên Của Tâm Trí Con Người

June 17, 2024

Ý thức của con người không chỉ giới hạn trong bộ não hay cơ thể như chúng ta vẫn được giảng dạy, mà thực chất nó vươn xa đến vô tận bên ngoài cơ thể con người. Ý thức của chúng ta không có biên giới, không có giới hạn. Chúng hợp nhất với tất cả các ý thức khác và hình thành cái tôi gọi là "ý thức tổng thể" hay "một ý thức". Ý thức này dường như không bị ảnh hưởng bởi thời gian, nên nó là bất tử, nó chính là nguồn gốc của trí tuệ và những sáng tạo vĩ đại.

Tôi kết luận điều này sau khi đã nghiên cứu rất nhiều nguồn dẫn chứng cùng với vô số các trải nghiệm của nhiều người. Về cơ bản, ý thức của chúng ta không nhỏ bé mà vô cùng lớn, thậm chí không có giới hạn. Ý thức không tồn tại riêng lẻ mà kết nối với nhau trong một ý thức thống nhất. Ý thức của một người kết nối với ý thức của người khác và với toàn bộ sự sống trên trái đất. Điều này là yếu tố cốt yếu cho sự sống của chúng ta.

Tôi muốn nói rằng bạn, người yêu, vợ chồng, con cái, anh chị em, tổ tiên, hậu duệ, thậm chí cha mẹ của vợ chồng và vật nuôi của bạn đều là thành phần của một ý thức lớn hơn - ý thức tổng thể.

Trong suốt thế kỷ 20, chúng ta tìm cách tách biệt ý thức khỏi vật chất, nay ta kết nối chúng lại. Chúng ta được giảng dạy rằng ý thức được phân loại thành tiền ý thức, ký ức tiềm thức, vô thức và vô thức tập thể. Nhưng thực tế, ý thức cá nhân của mỗi người là một phần trong một tổng thể ý thức lớn hơn, bao gồm tất cả các ý thức của toàn bộ loài người cũng như các sinh vật và sự vật khác trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Tại sao việc nhận thức về ý thức tổng thể lại quan trọng? Sự nhận biết này là niềm tin lớn nhất cho sự tồn tại vĩnh hằng của chúng ta trên trái đất. Chỉ khi nhận thức được sự kết nối của chúng ta với những thứ khác và với chính trái đất ở tầng sâu thẳm nhất, chúng ta mới có đủ can đảm để đưa ra các lựa chọn khó khăn mà sự sống yêu cầu.

Nhà văn người Mỹ Alice đã nói, chúng ta có thể bảo vệ bất cứ thứ gì chúng ta yêu quý. Trong số những thứ ta yêu quý có hành tinh này, bản thân chúng ta, con cái chúng ta và các thế hệ tương lai. Ngoài ra, ý thức tổng thể giúp chúng ta kết nối và hòa hợp với tất cả mọi thứ, từ đó chúng ta xây dựng đường tình yêu thương với tất cả. Do đó, ý thức tổng thể giúp chúng ta đưa thế giới này về đúng bản chất của nó.

Vậy dựa vào đâu chúng ta biết ý thức tổng thể thực sự tồn tại? Các gợi ý về ý thức tổng thể đều ở xung quanh chúng ta. Điều này không phải là triết học đơn thuần. Qua thời gian, tất cả chúng ta đều đã trải nghiệm những hiện tượng mà chỉ có thể giải thích được nếu chúng ta thừa nhận rằng mình có liên hệ với người khác trong tâm thức.

Tình yêu của một người mẹ với con là một ví dụ về sự hòa hợp mà ở đó mọi ranh giới và sự xa cách đều được vượt qua. Hay những người từng có tình yêu sâu đậm đều trải nghiệm một điều là khi hai con người đã hiểu nhau, đồng cảm với nhau thì khái niệm người khác không còn nữa.

Gần đây, mọi người quan tâm nhiều tới việc tìm hiểu nguồn gốc gia đình. Đây có thể coi là sự cố gắng khôi phục lại những liên hệ với người xưa, với mọi người xung quanh và là mong mỏi tìm kiếm sự đồng nhất.

Hơn nữa, con người thường trao đổi từ xa với nhau những suy nghĩ, cảm xúc, thậm chí cả cảm giác của cơ thể. Điều này đặc biệt phổ biến giữa những người có quan hệ tình cảm thân thiết. Ví dụ điển hình là khi người mẹ ngay lập tức cảm nhận được việc đứa con đang bị nguy hiểm dù đang ở rất xa, như thể người mẹ và đứa con có chung tâm trí và ý thức. Một ví dụ khác là con người thường có được kiến thức về sự vật theo những cách không thể giải thích được.

Nhà phát minh vĩ đại Thomas Edison từng nói: "Tôi chưa bao giờ sáng tạo điều gì cả. Các ý tưởng đến với tôi từ vũ trụ và vạn vật xung quanh, từ đó tôi diễn đạt lại chúng." Hay như những người mắc hội chứng bác học JAV, thường bị tổn thương về trí não. Họ không thể đọc và không có khả năng học, nhưng họ có những thứ mà chẳng thể nào đạt được thông qua việc học. Stephen là một ví dụ, anh chỉ cần nhìn qua một cảnh vật là có thể vẽ lại chi tiết và chính xác hình vật đó. Khả năng này có được từ đâu? Có thể cho rằng họ có sự kết nối tới một kho tri thức, kho tri thức đó chính là ý thức tổng thể.

Con người cũng thường có những giấc mơ rất chi tiết về tương lai, đó là công năng linh cảm. Trải nghiệm cận tử là một cánh cổng dẫn tới ý thức tổng thể. Có 10 triệu người Mỹ có trải nghiệm này, đặc trưng của nó là cảm giác hợp nhất với tất cả mọi thứ. Trải nghiệm này mang lại cho người ta một nhận thức sâu sắc đến nỗi cuộc sống của họ đã biến đổi hoàn toàn sau khi bình phục.

Những hiện tượng này sẽ không thể giải thích được bằng hiểu biết hiện tại rằng ý thức của chúng ta bị giới hạn trong bộ não, vốn chỉ tiếp thu thông tin qua các giác quan vật lý, hay ý thức của chúng ta bị tách rời khỏi tất cả các ý thức khác. Vì vậy, để giải thích các hiện tượng trên, đòi hỏi cần có cái nhìn tổng quát hơn về ý thức, đó là cái mà ta gọi là ý thức tổng thể.

Triệu chứng cho thấy ý thức không bị giới hạn trong bộ não và cơ thể. Và nếu nó không bị giới hạn vào một nơi cụ thể nào đó trong không gian, các ý thức đơn lẻ của chúng ta phải liên kết với nhau theo một cách nào đó. Một lần nữa, có thể cho rằng chúng liên kết với nhau trong ý thức tổng thể. Lợi ích của nhận thức này vô cùng lớn. Nếu ý thức cá nhân không có giới hạn và hòa vào tất cả các ý thức khác, điều đó có nghĩa chúng ta có thể tiếp cận với tất cả trí tuệ và sự sáng tạo trong đó.

Cùng với đó, vì ý thức tổng thể là vô tận, không chỉ về không gian mà còn cả về thời gian, nên ở một phương diện nào đó thì nó phải là bất tử. Vì vậy, quan điểm về ý thức tổng thể một cách gián tiếp đảm bảo với chúng ta về sự sống bất tử, dù thân xác đã không còn.

Khái niệm về ý thức tổng thể đã có từ rất lâu. Triết học của người Ấn Độ cổ xưa 3000 năm trước đã nói tới ý thức tổng thể. Họ gọi nó như là "thư viện Akashic". Khái niệm về sự thống nhất giữa con người và thần thánh của đạo Hindu được gọi là "Tat Tvam Asi" nghĩa là "tâm hồn hay ý thức của bạn là một phần của thực tại tối nguyên". Trước khi vũ trụ được tạo thành, thì một ý thức đơn nhất đã tồn tại và ở nơi sâu thẳm nhất, nó đồng nhất với bạn.

Nhiều truyền thuyết dành sự tôn kính cho ý thức tổng thể theo các cách khác nhau. Nó được gọi là "Satori" trong phái Thiền, "Samadhi" trong Yoga, "Fana" trong Sufism, và ý thức của Chúa Giêsu trong đạo Kitô giáo. Các thuật ngữ khác gồm có "ý thức vũ trụ", "sự khai trí", "thức tỉnh", "giác ngộ" và nhiều nữa. Dù với tên gọi nào, thì trải nghiệm về ý thức tổng thể cũng chứa đựng nhận thức rõ ràng về việc vũ trụ và tất cả những gì có trong vũ trụ là một thể thống nhất, không hề có sự phân cách thực sự giữa vạn vật. Tất cả được kết nối với phần còn lại, sự phân cách chỉ là ảo giác. Như nhà tâm lý học William James đã viết: "Không có sự ngăn cách giữa các thực thể cả về không gian lẫn thời gian. Toàn bộ vũ trụ được nhận thức như một thực thể duy nhất."

Trải nghiệm về ý thức tổng thể cho người ta cảm giác rằng họ đã lĩnh hội được sự thật không thể chối bỏ. Trong kinh Tân Ước có những đoạn ám chỉ về ý thức tổng thể. Thánh Paul nói: "Sự bình yên của Chúa vượt xa mọi sự hiểu biết." Như nhà thần học Joseph Campbell đã diễn giải, Giêsu nói rằng: "Thiên đường nằm ở bên trong tâm hồn." Vậy ai ở trên thiên đường? Đó là Chúa. Điều đó có nghĩa Chúa ở trong mỗi con người, vô cùng tận, không biên giới, bất tử và là một, là duy nhất.

Các nhà tiên kinh nghiệm học người Mỹ cũng ủng hộ khái niệm ý thức tổng thể. Điều này thể hiện qua ý tưởng về "linh hồn tối cao" hay còn gọi là "linh hồn bao trùm cả vũ trụ". Emerson cho rằng linh hồn của tất cả mọi người đều kết nối với nhau. Quan niệm về vô thức tập thể của nhà tâm lý học Thụy Sĩ Carl Jung cũng là một dạng của ý thức tổng thể.

Một trong những người sáng lập nên ngành tâm lý học Mỹ, William James, cũng đề xuất ý thức tập thể và thống nhất. Nhiều nhà khoa học xuất chúng ở nhiều lĩnh vực khác nhau cũng tán thành quan điểm về ý thức tổng thể. Điều này được thể hiện qua các bài viết trong vật lý hiện đại của Erwin Schrödinger, nhà vật lý học từng đoạt giải Nobel, đã đưa ra các phương trình sóng làm nền tảng trung tâm của vật lý lượng tử. Nhà vật lý học nổi tiếng David Bohm cũng rất ủng hộ quan điểm về một ý thức bao quát thống nhất chứa tất cả các ý thức đơn lẻ.

Vậy, là một bác sĩ, công việc chữa bệnh có liên hệ gì với mối quan tâm về ý thức tổng thể không? Đương nhiên là có. Thời kỳ mới bắt đầu công việc của một bác sĩ nội khoa, một vài sự kiện đã xảy ra và chúng đã thay đổi hoàn toàn quan điểm về ý thức, gây xáo trộn trong suy nghĩ, vốn là một người luôn tin rằng ý thức và bộ não về cơ bản là một. Nhưng khi bắt đầu có trải nghiệm về các điềm báo cho biết các thông tin về sự kiện tương lai, các bác sĩ đã bắt đầu nghi ngờ những giáo lý trước đây vốn cho rằng những điều như vậy không thể xảy ra. Những trải nghiệm này không chỉ diễn ra với một số bác sĩ mà còn với các bệnh nhân cũng như các y tá. Họ đã chia sẻ những trải nghiệm tương tự nhau.

Cuối những năm 1980, các tạp chí y học bắt đầu công bố các thử nghiệm đánh giá ảnh hưởng chữa bệnh của những lời cầu nguyện và mong ước từ những người đang ở cách xa tới các bệnh nhân đang ở trong bệnh viện. Thử nghiệm tương tự được thực hiện với các sinh vật khác cũng như các cơ quan và tế bào sinh học. Kết quả của các thử nghiệm càng thêm sự khẳng định rằng ý thức không bị hạn chế trong não bộ. Những suy nghĩ và ước nguyện của con người có thể vươn ra ngoài cơ thể và thay đổi cả thế giới bên ngoài.

Một vài đánh giá gọi là "phân tích hệ thống" hoặc "tổng hợp" trong lĩnh vực này đã được công bố. Đây là phương pháp tổng hợp kết quả từ nhiều nghiên cứu để đạt được cái nhìn tổng quan về một lĩnh vực cụ thể. Nhiều phân tích như vậy đã được xuất bản trên các tạp chí có bình duyệt. Phần lớn chúng có kết quả cho thấy thực sự có tồn tại ảnh hưởng của ý thức từ khoảng cách xa. Mặc dù vậy, điều này vẫn chưa được đại chúng đón nhận như đáng lẽ nó phải như vậy.

Mặc dù luôn luôn bị phớt lờ bởi những người theo chủ nghĩa hoài nghi, nhưng chúng ta cần nhận ra rằng phạm vi của những thử nghiệm này không chỉ ở loài người mà còn cả động vật, thực vật, vi sinh vật, thậm chí là các phản ứng hóa học.

Tại sao điều này lại quan trọng? Những người hoài nghi thường cho rằng nếu một người bệnh có biểu hiện tốt hơn nhờ những lời cầu nguyện của người khác ở nơi xa thì đó đơn thuần là hiệu ứng giả dược, là kết quả của suy nghĩ và những mong đợi tích cực của cá nhân người bệnh. Nhưng nếu một loài động vật, thực vật, vi sinh vật hay các phản ứng sinh hóa cũng bị tác động thì không thể xem các ảnh hưởng từ xa là giả dược, vì theo như hiểu biết của chúng ta thì động thực vật, vi sinh vật và chất hóa học không hề có suy nghĩ tích cực, chúng không phản ứng với giả dược.

Vậy nên những nghiên cứu với các đối tượng không phải là con người gợi ý rằng các hiệu ứng chữa bệnh qua ý thức trung gian ở khoảng cách xa và các hiện tượng được thực hiện ở khoảng cách xa khác là có thật và chúng ta không thể nổi gạt chính mình. Chỉ khi nhận thức được sự kết nối của chúng ta với những thứ khác và với chính trái đất ở tầng xúc cảm sâu thẳm nhất, chúng ta mới có đủ can đảm để đưa ra các lựa chọn khó khăn mà sự sống yêu cầu.

Những thử nghiệm khác nhau này nhằm chứng minh sự tồn tại của ý thức tổng thể. Chúng cho thấy một vài khía cạnh trong ý thức của chúng ta hoạt động bên ngoài bộ não và cơ thể con người, không thể bị giới hạn mà là vô hạn. Và nếu ý thức là vô hạn thì chúng không có biên giới và tất cả các ý thức phải kết nối với nhau.

Một số nghiên cứu gọi là thử nghiệm linh cảm hay thử nghiệm về sự nhận thức được tương lai cho thấy chúng ta có thể có thông tin về các sự kiện trước khi chúng xảy ra. Tập hợp các bằng chứng lại với nhau, bức tranh về ý thức vô tận đã trở nên rõ ràng hơn. Nó chỉ ra rằng ý thức của chúng ta không có hạn định hay giới hạn ở những vị trí cụ thể trong không gian và thời gian.

Và nếu ý thức của chúng ta không bị bó buộc, chúng phải liên kết với nhau bằng cách nào đó để tạo nên một ý thức duy nhất, một thực thể duy nhất - ý thức tổng thể.

Bạn có nghĩ điều này nghe có vẻ khá cấp tiến không? Trước đây ta có thể nghĩ như vậy, nhưng bây giờ thì không. Các quan điểm mới trong khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, giáo dục đều nghe có vẻ cấp tiến khi mới được đề xuất, đặc biệt với vấn đề ý thức thì đúng là như thế. Như một nhà khoa học theo chủ nghĩa hoài nghi đã nói về ý thức không giới hạn rằng: "Đây là một trong những điều tôi sẽ không tin ngay cả khi nó đúng."

Nhà vật lý học Max Planck, người đặt nền tảng chính của vật lý lượng tử, đã từng vấp phải sự hoài nghi này. Ông nói: "Thế hệ các nhà khoa học đi trước rồi sẽ không còn và sẽ bị thay thế bởi thế hệ trẻ hơn, các cá nhân có tư tưởng cởi mở." Câu nói của Planck được tóm gọn là: "Khoa học thay đổi từ đám tang này qua đám tang khác." Sự thay đổi căn bản ở bất kỳ lĩnh vực nào gần như luôn luôn gặp những cản trở, khoa học cũng vậy.

Hình như nhiều nhà bảo thủ hoài nghi nghĩ rằng các khái niệm của chúng ta hiện tại về ý thức là được ghim vào đá hay nó đang diêm vào não của chúng ta. Dù vậy, các quan điểm mới về ý thức vẫn không ngừng xuất hiện trong lịch sử.

Trong thế kỷ 20, chúng ta thấy rất nhiều các ý tưởng mới về ý thức như là vô thức, tiền ý thức, ký ức tiềm thức và vô thức tập thể. Ý thức tổng thể là một dạng của ý thức tập thể, một khái niệm vốn đã được nhìn nhận ở mức sơ khai bởi nhà tâm lý học vĩ đại Carl Jung, nhà tâm lý học William James và nhiều người khác. Nhưng chúng ta cũng có thứ mà trong ngày xưa không có, đó là rất nhiều những bằng chứng thực nghiệm ủng hộ quan điểm này.

Vậy, nhận thức về ý thức tổng thể đã khiến cuộc sống của chính chúng ta thay đổi như thế nào? Nhận thức về ý thức tổng thể đã khiến cuộc sống của chúng ta trở nên yên bình, tĩnh lặng và vui vẻ hơn rất nhiều. Có người vốn là người nhút nhát, sống cô độc, nhận thức về vị trí của họ trong ý thức tổng thể đã giúp vượt qua khuynh hướng thích sống xuất hiện từ nhỏ. Họ cảm thấy họ đã tìm ra một nơi chân thật hơn trong vũ trụ. Đúng hơn, nó giống như trở về nhà và nhận ra là mình chưa bao giờ đi đâu cả. Nó là cảm giác thuộc về cái gì đó, cảm giác tìm thấy bản thân bạn là một mảnh ghép trong bức tranh vĩ đại của vạn vật. Nỗi sợ hãi khủng khiếp về cái chết của con người không còn nữa.

Điều này quan trọng với chúng ta bởi vì chúng ta tin rằng sự sợ hãi về cái chết và sự hủy diệt của xác thân chúng ta đã gây ra nhiều sự đau khổ trong suốt lịch sử loài người hơn tất cả các chứng bệnh thân xác cộng lại.

Ý thức tổng thể làm giảm bớt sự sợ hãi đó và nỗi đau khổ cũng giảm bớt theo. Tại sao lại như vậy? Ý thức tổng thể có được sự vĩnh cửu nhờ vào sự vô tận của không gian và thời gian. Nhận thức về ý thức tổng thể đã ảnh hưởng đến cách giao tiếp, quan hệ với mọi người. Ta trở nên bớt ganh đua, cho đi nhiều hơn, giúp đỡ nhiều hơn, cảm thông nhiều hơn tới khó khăn. Mặc dù vậy, ta vẫn còn có nhiều điều cần phải cải thiện.

Nhận thức về ý thức tổng thể không chỉ là một quan điểm tâm linh hay triết học, mà nó còn có ứng dụng thực tiễn trong cuộc sống hàng ngày. Khi nhận ra rằng chúng ta đều là một phần của một tổng thể lớn hơn, chúng ta bắt đầu nhìn nhận mọi người và mọi thứ xung quanh với một cái nhìn mới mẻ và đầy lòng trắc ẩn.

Trong công việc, nhận thức này giúp chúng ta làm việc nhóm hiệu quả hơn, vì chúng ta hiểu rằng thành công của một người phụ thuộc vào sự đóng góp của cả nhóm. Chúng ta trở nên kiên nhẫn hơn và sẵn lòng lắng nghe ý kiến của người khác, bởi chúng ta hiểu rằng mỗi người đều có một phần của sự thật và trí tuệ tổng thể.

Trong các mối quan hệ cá nhân, nhận thức về ý thức tổng thể giúp chúng ta xây dựng những mối quan hệ sâu sắc và ý nghĩa hơn. Chúng ta học cách tha thứ và hiểu rằng mọi người đều có những khó khăn và thử thách riêng. Điều này giúp giảm bớt xung đột và tăng cường sự hòa hợp.

Trong chăm sóc sức khỏe, ý thức tổng thể có thể giúp chúng ta hiểu rằng sức khỏe không chỉ là vấn đề của cơ thể mà còn liên quan đến tâm trí và tinh thần. Chúng ta học cách sống lành mạnh hơn, không chỉ trong việc ăn uống và vận động mà còn trong cách chúng ta suy nghĩ và cảm nhận.

Nhận thức về ý thức tổng thể cũng khuyến khích chúng ta sống một cách bền vững và tôn trọng môi trường. Chúng ta nhận ra rằng trái đất không chỉ là một tài sản để khai thác mà là một phần của chúng ta, một phần của ý thức tổng thể mà chúng ta cần bảo vệ.

Cuối cùng, nhận thức về ý thức tổng thể giúp chúng ta sống với một mục đích cao cả hơn. Chúng ta không còn chỉ sống cho bản thân mà còn cho cộng đồng và cho toàn bộ sự sống trên trái đất. Chúng ta cảm thấy có trách nhiệm hơn với hành động của mình và tìm kiếm cách để góp phần vào sự phát triển bền vững và hạnh phúc của toàn thể nhân loại.

Nhận thức này không chỉ thay đổi cách mà chúng ta nhìn nhận thế giới, mà còn thay đổi cách mà chúng ta sống trong thế giới đó. Nó mang lại cho chúng ta một cảm giác về sự liên kết và ý nghĩa, giúp chúng ta sống một cuộc sống đầy đủ và hài hòa hơn.